Tiếng Kêu Của Kẻ Khốn Cùng Được Chúa Lắng Nghe
Lm. Petrus Lửa Hồng
Kinh nghiệm thường nhật cho chúng ta thấy, lời nói, tiếng nài van người có thế giá, người có uy danh thường được lưu tâm và nhanh được thực hiện. Điều này chẳng có gì là bất thường, nếu đó là người liêm khiết, có ảnh hưởng tích cực đối với người khác trong xã hội. Cũng vậy, lời của những người công chính, người nghèo của Thiên Chúa được người đoái nghe và thi ân. Tuy nhiên, kinh nghiệm Kinh thánh còn mặc khải cho thấy, tiếng kêu cứu của kẻ khốn cùng, chân nhận tội lỗi mình được Thiên Chúa chúc lành. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mạc khải cho chúng ta thực tại này: kinh nghiệm sự khốn cùng, tội lỗi của con người và lòng thương xót của Thiên Chúa.
- “Một tấm lòng tan nát dày vò”
Câu chuyện Tin mừng hôm nay cho chúng ta đâu là khởi điểm và cái gì làm nên hiệu quả của việc cầu nguyện, đó là sự khiêm tốn. Điểm căn cốt của việc cầu nguyện là khẩn nài lòng thương xót của Thiên Chúa khi chân nhận mình là thân phận tội lỗi. Người thu thuế nhìn nhận sự khốn cùng của mình như David xưng thú trước nhan Đức Chúa: “Một tấm lòng tan nát dày vò”.
Sự khác biệt giữa hai con người lên đền thời cầu nguyện hôm nay không phải là xuất thân hay vị thế xã hội của họ, cũng không phải ở vị trí trong đền thờ mà họ cầu nguyện, mà ở thái độ cầu nguyện. Chính thái độ làm nên cốt cách cầu nguyện và mang lại hiệu quả cho việc cầu nguyện. Thái độ này hệ tại ở việc khiêm tốn chân nhận mình là tội nhân trước mặt Thiên Chúa. Trước Thiên Chúa là Đấng chí thánh, chúng ta chỉ có thể “đứng đằng xa”, “không dám ngước mắt lên”, và “đấm ngực” mà thưa lên: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,12). Đó là thái độ khiêm tốn của lòng sám hối khi trở về với lòng mình và đối diện với Thiên Chúa; khiêm tốn để tựa nương vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Trái ngược với tâm thái khiêm hạ, chân nhận sự khố cùng của mình là sự kiêu ngạo, dựa vào thành quả công đức của mình như người Pharisêu trong dụ ngôn. Ông không đến với Thiên Chúa trong tâm tình của người van xin lòng thương xót mà là thái độ của kẻ đòi Chúa trả “công” cho việc ông làm. Đó là thái độ của kẻ tự mãn, và dĩ nhiên sẽ không được nhận lời, không được cứu thoát.
Sự công chính của chúng ta hệ tại ở việc nương nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa một khi thấy sự khốn cùng của mình. Sự khốn cùng mà mà David đã thốt lên trong thánh vịnh sám hối: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm” (Tv 50,3), bởi thân con mang tội khi mới hoài thai, lúc chào đời con đã vướng lầm lỗi, con đã đắc tội với một mình Chúa. Đó cũng là việc xé nát tâm can, để được Đức Chúa băng bó, chữa lành, trả lại cho chúng ta sự trong sạch, ban lại niềm vui ơn cứu độ.
- Kẻ nghèo hèn xin, Chúa đã nhậm lời
Chúa Giêsu là Tin mừng cho những người nghèo, người thấp cổ bé họng, người đau khổ, kẻ khốn cùng. Đó là Tin mừng giải thoát, Tin mừng trọng đại: Thiên Chúa bênh đỡ kẻ nghèo hè, cứu chữa người nát tan tâm can. Bài đọc thứ nhất và Thánh vịnh 33 trong bài đáp ca mời gọi chúng ta tuyên nhân và chúc tụng Thiên Chúa công bình, “chẳng thiên vị ai”: Người lắng nghe và minh xử cho kẻ nghèo hèn bị áp bức; Người nghe tiếng than van của kẻ mô côi goá bụa; Người “gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát” (Tv 33,19). Tin mừng giải thoát được loan báo cho người đau thương dập nát, những kẻ có “tâm thần tan nát dày vò” như người thu thuế trong bài Tin mừng hôm nay.
“Chúa đối đầu với quân gian ác”, Người để mắt nhìn kẻ chính trực, lắng tai nghe tiếng họ kêu. Họ kêu xin và Chúa đã nhậm lời, giải thoát họ mọi cơn nguy khốn. Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (Tv 33,17-19).
Câu chuyện Tin mừng nói tới hai con người lên Đền thờ cầu nguyện, nhưng tâm điểm mà sứ điệp Lời Chúa hướng chúng ta là Lòng thương xót của Thiên Chúa. Không phải ở người cầu nguyện mà tiên vàn hệ tại ở Thiên Chúa, Đấng đã đi bước trước trong cuộc tương ngộ giữa Thiên Chúa và con người. Đó là chân lý nền tảng để con người, trong sự khôn cùng của mình, gặp được Đấng “chậm giận, giầu tình thương và lòng thương xót”, Đấng luôn đón đợi con người để thi thố quyền năng tình yêu tha thứ cho họ. Sự khiêm tốn của con người, của kẻ khốn cùng cả trên bình diện thể lý và tâm linh tìm thấy được sự tựa nương, sự giải thoát nơi Trái tim của Thiên Chúa: “Tôi nói cho các ông biết, người này – (người thu thế khiêm tốn xứng nhận chính mình) – khi trở xuống mà về nhà, thì được nên công chính rồi, còn người kia – (người pharisêu, tự cho mình công chính) – thì không” (Lc 18,14).
Thiên Chúa kiếm tìm những ai thiện chí tìm kiếm Người, những ai để cho ánh mắt từ nhân của Người soi chiếu sẽ được chiếu sáng, những ai khao khát được tha thứ sẽ được no thoả cơn khát sự chính trực công mình. Đó là ý nghĩa của định nghĩa cầu nguyện: “là cuộc tương ngộ giữa khao khát của Thiên Chúa và sự khao khát của con người” (GLHTCG, 2560).
- Khiêm tốn trong cuộc chạy đua dành vòng thiên tuế
Thánh Phaolô, vị Tông đồ của các dân ngoại, nhà truyền giáo của mọi thời đại, người khiêm tốn nhìn nhận mình là “đứa con sinh non”, “tôi tớ”, “tông đồ của Đức Giêsu Kitô”, để loan truyền những kỳ công của Thiên Chúa đã định từ trước trong Con của Người.
Được Đức Kitô “chiếm đoạt”, “dành lấy”, Phaolô không cậy dựa vào mối lợi của thế gian mà tìm kiếm mối lợi tuyệt vời là Đức Kitô và Tin mừng của Người. Ngài không tìm vinh quang cho mình, mà chỉ hãnh diện về Thập giá Chúa Kitô, trở nên mọi sự cho mọi người để Đức Kitô được loan báo, được biết, được thành hình nơi các tín hữu.
Khiêm tốn là nương tựa vào sức mạnh của Chúa chứ không cậy vào tài năng của mình. Trong khổ luỵ, tù đày vì Đức Kitô, Phaolô khẳng định sức mạnh, ơn phù trợ của ngài đến từ Chúa, Đấng “ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc giao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin mừng” (2Tm 4,17).
Khiêm tốn để chân nhận sự công chính không hệ tại ở công này việc nọ chúng ta làm mà đức tin vào Đức Giêsu Kitô, sự công chính giúp chúng ta đạt tới vương vị con Thiên Chúa trong Người Con duy nhất và băng mình về phía trước “trong cuộc thi đấu cao đẹp, đi hết chặng đường, giữ vững đức tin” và đang đón đợi “vòng hoa dành cho người công chính”, người khiêm tốn tiến bước vào dự đại hội của con cái Thiên Chúa.
Người Pharisêu Và Người Thu Thuế
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Tin Mừng Chúa Nhật này là dụ ngôn về người Pharisêu và người thu thuế. Câu đầu tiên giới thiệu về hai nhân vật:
“Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế” (Lc 18,10).
Câu cuối mô tả về kết quả của cả hai nhân vật này:
“Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; con người kia thì không” (Lc 18,14).
Khi vào đền thờ, dẫu thuộc về cấp bậc tôn giáo và địa vị xã hội khác nhau, cả hai nhân vật quả thực rất giống nhau. Nhưng khi ra khỏi đền thờ, họ trở thành những người hoàn toàn khác nhau. Một người ‘được nên công chính,’ nghĩa là được tha thứ, được hòa giải với Thiên Chúa; còn người kia thì vẫn như cũ, và có lẽ tình trạng của ông còn tệ hơn trước Thiên Chúa. Một người nhận được ơn cứu độ, người kia thì không.
Hai người đã làm gì trong khi cầu nguyện ở đền thờ mà đưa đến kết quả như thế? Chúa Giêsu giải thích cho chúng ta điều này khi nói về cách thức cầu nguyện của hai người.
- Thái độ của người Pharisêu
Trước hết, người Pharisêu cầu nguyện như sau:
“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,11).
Chúng ta cần phân tích lời cầu nguyện của người Pharisêu. Ông bắt đầu nói: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa.” Khởi đầu rất tốt. Ông cầu nguyện bằng cách tạ ơn Chúa, đây là một điều rất tốt đẹp. Nhưng tại sao người Pharisêu tạ ơn Thiên Chúa? Có phải vì ơn Thiên Chúa không? Hoàn toàn không!
Vậy, người Pharisêu đã làm gì? Có thể nói rằng ông này là người chỉ dựa vào việc giữ luật để đánh giá những gì xung quanh mình theo thước đo này: ai là công chính và ai là bất chính, ai tốt và ai xấu. Ông tự cho mình là người không như những kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình; ông ăn chay hai lần một tuần và đóng thuế thập phân. Ông tự vẽ chân dung, tự cho mình là công chính nhờ việc làm của mình. Vì thế, ông cho mình là hơn người và xứng đáng.
Nhưng người Pharisêu lại quên một điều quan trọng, một giới răn quan trọng đó là yêu mến tha nhân như chính mình. Đó là tình yêu đối với người thân cận. Lòng bác ái không có chỗ trong lý tưởng hoàn hảo của người Pharisêu, nên ông khinh miệt người khác là những người tham lam, bất chính, và ngoại tình. Dẫu ông biết rất rõ rằng yêu người thân cận như chính mình là luật quan trọng nhất trong các giới răn (x. Lc 10,25tt).
Người Pharisêu có thái độ sai lầm vì một lý do còn nghiêm trọng hơn. Ông tự đảo lộn vị trí giữa mình và Thiên Chúa. Ông tự coi Thiên Chúa như chủ nợ và ông là một con nợ. Ông đã làm những việc tốt lành và bây giờ ông đến với Thiên Chúa để đòi lại những gì ông phải được hoàn lại. Thiên Chúa phải làm gì trong hoàn cảnh này? Người không làm gì khác hơn là phải giao lại món hàng cho con nợ. Đây là một quan niệm méo mó của người Pharisêu về Thiên Chúa.
- Thái độ của người thu thuế
Giờ đây, chúng ta chuyển sang thái độ của người thu thuế:
“Còn người thu thuế thì đứng ở đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’” (Lc 18,13).
Người này chỉ đến trước nhan Thiên Chúa, không dám so sánh với người khác như người Pharisêu đã làm, nhưng chỉ một mình với Thiên Chúa. Ông không dám tiến lên cao, vì ý thức mình không dám tới gần Thiên Chúa và cũng không dám ngước mặt lên trời nữa. Ông đấm ngực ăn năn tội. Từ trái tim, ông thốt ra một lời cầu nguyện rất ngắn, nhưng là lời cầu phát xuất từ một tấm lòng hoán cải và khiêm tốn:
“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”
Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nói đến hai hạng người quan niệm khác nhau về ơn cứu độ. Người Pharisêu là đại diện cho những người cho rằng mình sẽ được cứu độ chỉ nhờ vào việc mình làm; người thu thuế là đại diện cho những người quan niệm rằng ơn cứu độ là hồng ân và quà tặng nhưng không của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô là một ví dụ điển hình cho hai quan niệm này. Trước khi chưa gặp Đức Giêsu, Phaolô là một người Pharisêu rất trung thành với lề luật, nhưng sau khi gặp Đức Kitô, ngài coi sự công chính nhờ việc tuân giữ lề luật là thua thiệt và rác rưởi so với sự thánh thiện đến từ đức tin vào Chúa Kitô (x. Pl 3,5-9).
- Thái độ của chúng ta
Hai hình thức quan niệm về ơn cứu độ vẫn còn hiện diện và phổ biến trong đời sống đạo của người Kitô hữu hôm nay. Nhiều người hôm nay vẫn còn quan niệm ơn cứu độ như là thành quả cá nhân đạt được nhờ việc giữ luật, khổ chế và hiểu biết của mình. Kitô giáo dạy rằng ơn cứu độ là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đức tin này đòi hỏi những nỗ lực cá nhân để tuân giữ các giới răn, như là sự đáp trả đối với ân sủng Thiên Chúa.
Giờ đây, chúng ta liên hệ đến đời sống mỗi người. Có lẽ người ta rất dễ đồng hóa người thu thuế với những người Kitô hữu và người Pharisêu với những người khác. Sự khác biệt ở đây rất tế nhị. Ngay cả giữa những người Kitô hữu, có một số người thuộc loại người Pharisêu, những người khác lại thuộc người thu thuế. Nơi chúng ta không ai hoàn toàn là người Pharisêu và không ai hoàn toàn là người thu thuế. Ít hay nhiều chúng ta có một phần của người Pharisêu và một phần của người thu thuế. Nhiều khi chúng ta hành xử vừa như người Pharisêu, vừa như người thu thuế.
Ngày nay, nhiều người đến tòa xưng tội như thế này: “Con không có ăn cắp, không có giết người, không có làm điều xấu cho bất cứ ai.” Khi nói như thế, chúng ta đã rơi vào thái độ của người Pharisêu. Chúng ta tự tha thứ cho mình và cũng chẳng cần xin ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Một mặt, chúng ta học nơi người Pharisêu là không gian tham, bất chính và ngoại tình, cố gắng giữ các giới răn của Thiên Chúa trong đời sống mình.
Mặt khác, chúng ta học nơi người thu thuế về thái độ khiêm tốn khi đối diện trước Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của người thu thuế rất đơn giản nhưng rất hiệu quả:
“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”
Con người luôn có tội. Thiên Chúa luôn thương xót. Một lời cầu nguyện như thế đầy sự khiêm tốn và tin tưởng sẽ đi thẳng tới trái tim của Thiên Chúa. Như thế tại sao chúng ta không lặp lại những lời đó mỗi khi chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa? Amen!
Tôi Là Ai: Người Pharisêu Hay Người Thu Thuế?
Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương
Có lần, một em thiếu nhi hỏi tôi: “Thưa cha, con thấy khi cầu nguyện, có người nói to, có người đọc nhỏ, có người khóc, có người im lặng… Vậy Chúa thích kiểu cầu nguyện nào nhất?” Tôi mỉm cười và hỏi lại: “Thế con nghĩ sao?” Em trả lời: “Chắc Chúa thích người đọc nhiều kinh nhất!”
Câu trả lời ấy dễ thương, nhưng cũng khiến tôi suy nghĩ. Nhiều khi chúng ta cứ nghĩ đọc nhiều kinh, nói nhiều lời là tốt nhất, nhưng Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: điều Chúa thực sự lắng nghe không phải là âm thanh của môi miệng, mà là tiếng lòng khiêm tốn của chúng ta.
Thật vậy, hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta tự vấn: “Tôi là ai: người Pha-ri-sêu, hay người thu thuế?” Để trả lời câu hỏi ấy, chúng ta hãy cùng nhau suy gẫm về ý nghĩa của cầu nguyện và phẩm chất của lời cầu được Thiên Chúa đoái nghe. Vậy,
Cầu nguyện là gì và Thiên Chúa đoái nghe lời cầu nguyện nào?
Theo Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo: “Cầu nguyện là mối liên lạc sống động giữa cá nhân mỗi người với Thiên Chúa hằng sống; là tương quan sống động của con cái Thiên Chúa với Cha trên trời” (số 2558, 2565). Cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, mà là lúc chúng ta hướng lòng lên cùng Thiên Chúa để tôn thờ, cảm tạ, cậy trông và phó thác. Khi cầu nguyện, ta nhận ra phẩm giá cao quý của mình: được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa để nhận biết, yêu mến và phụng sự Ngài. Hơn nữa, cầu nguyện không phải để thông báo cho Chúa biết điều ta cần, vì Ngài thấu suốt mọi tâm can, mọi nhu cầu ước nguyện của ta, nhưng để ta đặt trọn lòng tin tưởng và tự do của mình trong tay Cha trên trời.
Bài đọc I trích sách Huấn ca (35, 12-14.16-18 ) nhấn mạnh: “Lời cầu của người nghèo vượt ngàn mây thẳm… Người không coi thường tiếng than của kẻ mồ côi, hay lời kêu của người goá bụa.” Thiên Chúa không thiên vị người quyền thế hay nhìn vào công trạng bề ngoài, nhưng Ngài nhìn vào tấm lòng tan nát và khiêm cung. Câu đáp ca trong Tv 33 cũng hát lên: “Kẻ nghèo hèn kêu xin, và Chúa đã nhận lời.” Như thế, Thiên Chúa không cần những lời cầu hoa mỹ, nhưng cần một trái tim khiêm nhường, biết mình yếu đuối và tin tưởng phó thác.
Hai con người, hai cách cầu nguyện
Tin Mừng Luca kể rằng: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện: một người Pha-ri-sêu và một người thu thuế.” (x. Lc 18, 8 -14)
Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm: “Lạy Thiên Chúa, con tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.” Lời cầu của ông là một bản tự khen, kể công trước mặt Chúa và chứng minh mình tốt lành hơn người. Nhưng thực ra, ông không nói với Thiên Chúa mà ông chỉ nói về chính mình.
Còn người thu thuế thì khác hẳn. Anh đứng đằng xa, không dám ngước mắt lên trời, chỉ biết đấm ngực và thưa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Một lời cầu ngắn ngủi nhưng chan chứa đức tin. Trong đó có sự nhận biết tội lỗi, sự khiêm nhường và lòng trông cậy vào Chúa. Anh biết mình chẳng có gì để kể công, lại là kẻ bị xã hội khinh ghét, nên anh chỉ còn biết phó thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu kết luận: “Người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (x. Lc 18, 14)
Khiêm tốn: Con đường nên công chính
Thánh Phaolô trong bài đọc II (x. 2Tm 4, 6-8.16-18) cũng là một mẫu gương cầu nguyện khiêm hạ. Ngài nói: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã giữ vững niềm tin.” Nhưng Phaolô không tự hào và kể công. Trái lại, ngài nhận ra: “Có Chúa đứng bên cạnh, Người ban sức mạnh cho tôi… Chúa sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người.” Đây chính là lời cầu nguyện của một người đặt trọn niềm tin vào ơn Chúa, chứ không vào thành quả của mình. Giống như người thu thuế, Thánh Phaolô biết rằng: ơn cứu độ là ân huệ nhưng không, không phải phần thưởng cho sự tự mãn, mà là kết quả của một tấm lòng trung tín, khiêm tốn và phó thác.
Vậy, tôi là ai trong hai người ấy?
Thử nhìn vào đời sống thiêng liêng của chúng ta xem sao? Đôi khi chúng ta cũng là người Pha-ri-sêu trong cầu nguyện. Ta đến nhà thờ, đọc kinh, dự lễ, nhưng trong lòng vẫn nghĩ mình hơn người khác. Ta kể công với Chúa: “Con đã làm việc bác ái, con giữ luật, con đi lễ đều, con làm ông này bà nọ trong giáo xứ…” Nhưng ta lại khép lòng với anh em, xét đoán, khinh thường và không nhận ra chính mình cũng cần được xót thương. Có khi ta cầu nguyện nhiều, nhưng tâm hồn vẫn bất an, vẫn cảm thấy Chúa “xa cách”. Phải chăng vì ta cầu nguyện chưa đúng cách, chưa biết đặt mình nhỏ bé trước Thiên Chúa?
Khiêm tốn, chìa khóa mở cửa lòng Thiên Chúa
Người ta thường nói: “Khiêm tốn mấy không bao giờ thừa.” Ai biết sống khiêm nhường trước Chúa thì cũng biết sống khiêm nhường với tha nhân. Chính Đức Maria trong bài ca Magnificat đã ca ngợi Thiên Chúa: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” Thật vậy, Thiên Chúa nâng cao người nhỏ bé, bởi chỉ người nhỏ bé mới để cho Chúa hành động; người bé mọn mới được Thiên Chúa mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Mặt khác, khi ta nhìn nhận tội lỗi mình, ta sẽ dễ dàng cảm thông và tha thứ cho người khác. Khi ta biết mình được Chúa thương xót, ta sẽ biết xót thương anh em. Đó là tinh thần của lời kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con.”
Người nghèo thật sự là người biết mình cần đến Thiên Chúa. Cho nên, cầu nguyện như người thu thuế: khiêm tốn, tin tưởng và sám hối chính là con đường mở ra Nước Trời. Do đó, mỗi thánh lễ là dịp ta bước lên “Đền thờ” để gặp Chúa, chúng ta hãy khiêm tốn cất lên lời mà người thu thuế đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”
Hơn thế nữa, khi tiến lên hiệp lễ hay lãnh nhận Bí tích Hòa giải, chúng ta hãy tự hỏi: tôi đến với Chúa trong kiêu ngạo hay trong khiêm hạ? Nếu ta chọn sống như người thu thuế, Chúa sẽ biến đổi lòng ta, từ tội lỗi thành công chính, từ khô khan thành bình an và tràn đầy ơn Chúa. Quả thật, Thiên Chúa không bao giờ khinh chê tấm lòng thống hối và khiêm hạ của con người. Ngài luôn sẵn lòng dang tay đón nhận và biến đổi chúng ta mỗi khi chúng ta thành tâm trở về với Ngài và làm hòa với tha nhân. Chính Đức cố Giáo hoàng Phanxicô đã khẳng định: “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi trong việc tha thứ, chính chúng ta mới mệt mỏi khi không xin Ngài tha thứ”. Amen.
Nguồn: dcvphanxicoxavie.com


Có thể bạn quan tâm
Màu Đen Áo Chùng
Th10
Bài Hát Cộng Đồng Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời..
Th10
3 Bí Quyết Để Tự Do Hơn Trên Mạng Xã Hội
Th10
Tôi Là Ai: Người Pharisêu Hay Người Thu Thuế? (Chúa Nhật 30 TN..
Th10
Đức Thánh Cha tiếp Quốc vương Charles của Anh và chủ sự giờ..
Th10
Bài Hát Cộng Đồng Lễ Các Thánh Nam Nữ 01/11/2025
Th10
Kết Hôn Mà Không Sinh Con?
Th10
Không Có Người Nghèo, Giáo Hội Không Còn Là Chính Mình
Th10
Ban Mục vụ Giới Trẻ: Thông báo Tham Dự Đại Hội Giới Trẻ..
Th10
Giữ vững đức tin của giới trẻ trong thế giới hiện đại
Th10
Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Dịp Kỷ Niệm 10 Năm Phong..
Th10
Sứ Vụ Của Người Trẻ Trong Truyền Giáo
Th10
Lá thư cuối cùng của Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Th10
Số tín hữu Công giáo toàn cầu tăng, nhưng số linh mục và..
Th10
Gặp Gỡ 7 Vị Chân Phước Được Đức Giáo Hoàng Lêô Xiv Tuyên..
Th10
Phương Thức Truyền Giáo Nào Trong Bối Cảnh Ngày Nay?
Th10
Hội Ngộ Di Dân & Mừng Lễ Quan Thầy Giáo Xứ Kinh Nhuận..
Th10
Thánh Lễ Giỗ Mãn Tang Cha Cố Antôn Hoàng Tiến Diễn
Th10
VPTGM-GPHT: Thông Báo Ngày Hành Hương Năm Thánh Cho Lễ Sinh Toàn Giáo..
Th10
Giáo Xứ Truyền Tin Với Ba Niềm Vui Trong Tuần Chầu Lượt
Th10